Biến đổi khí hậu – Doisongnhandan.com https://doisongnhandan.com Trang tin tức đời sống nhân dân Fri, 03 Oct 2025 06:21:01 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doisongnhandan/2025/08/doisongnhandan.svg Biến đổi khí hậu – Doisongnhandan.com https://doisongnhandan.com 32 32 Chuyển đổi kho lạnh sang hướng bền vững: Giải pháp cho phát thải khí nhà kính https://doisongnhandan.com/chuyen-doi-kho-lanh-sang-huong-ben-vung-giai-phap-cho-phat-thai-khi-nha-kinh/ Fri, 03 Oct 2025 06:20:59 +0000 https://doisongnhandan.com/chuyen-doi-kho-lanh-sang-huong-ben-vung-giai-phap-cho-phat-thai-khi-nha-kinh/

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính từ mọi nguồn đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, một khâu quan trọng trong chuỗi cung ứng thực phẩm đang bị bỏ qua trong các chiến lược khí hậu quốc gia và doanh nghiệp, đó là hệ thống kho lạnh.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Một báo cáo gần đây của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) năm 2024 chỉ ra rằng, sự thiếu hụt hệ thống làm lạnh hiệu quả đang dẫn đến tình trạng thất thoát 526 triệu tấn thực phẩm hàng năm, chiếm 12% tổng sản lượng thực phẩm toàn cầu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến an ninh lương thực mà còn tác động tiêu cực đến thu nhập của 470 triệu nông dân quy mô nhỏ, làm giảm 15% thu nhập của họ.

Hệ thống kho lạnh hiện đang tiêu thụ một lượng năng lượng đáng kể, chiếm khoảng 60-70% năng lượng điện của các cơ sở lưu trữ lạnh. Trên quy mô toàn cầu, kho lạnh tiêu thụ khoảng 5% tổng nhu cầu năng lượng thế giới và đóng góp 2,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính. Phát thải từ kho lạnh diễn ra qua hai kênh chính: phát thải gián tiếp từ tiêu thụ điện năng và phát thải trực tiếp từ rò rỉ các chất làm lạnh hydrofluorocarbon (HFC).

Ở Việt Nam, ngành logistics kho lạnh dự kiến sẽ đạt 295 triệu USD vào năm 2025 với tốc độ tăng trưởng 12% mỗi năm. Tuy nhiên, sự phát triển này còn nhiều hạn chế về tính bền vững. Để chuyển đổi hệ thống kho lạnh theo hướng bền vững, cần một cách tiếp cận tích hợp từ công nghệ, chính sách đến tài chính.

Về mặt công nghệ, các giải pháp làm lạnh có tiềm lực nhà kính thấp (low-GWP) đang trở thành xu thế chủ đạo. Về chính sách, các quốc gia cần ban hành tiêu chuẩn ‘kho lạnh xanh’ tích hợp cả hiệu suất năng lượng và loại chất làm lạnh sử dụng. Về tài chính, nhiều cơ chế đang được phát triển để hỗ trợ chuyển đổi kho lạnh xanh, bao gồm các khoản vay xanh, trái phiếu liên kết ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị), và mô hình Cooling-as-a-Service (CaaS) – làm lạnh như một dịch vụ.

Việt Nam có thể học hỏi từ châu Âu trong việc thiết lập tiêu chuẩn ‘kho lạnh xanh’ và cần có sự phối hợp liên ngành để các cơ chế tài chính phát huy hiệu quả. Việc chuyển đổi sang hệ thống kho lạnh bền vững không chỉ giúp giảm thiểu tác động môi trường mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực và hỗ trợ phát triển bền vững.

Xu hướng chuyển dịch sang các giải pháp làm lạnh bền vững đang ngày càng rõ ràng. Các doanh nghiệp và chính phủ trên toàn thế giới đang tích cực tìm kiếm các giải pháp để giảm thiểu tác động môi trường từ hệ thống kho lạnh. Với sự hợp tác và cam kết từ tất cả các bên liên quan, việc xây dựng một tương lai bền vững cho ngành logistics kho lạnh là hoàn toàn có thể.

]]>
Thảm kịch lũ quét ở Điện Biên: 1/3 bản làng bị ‘xóa sổ’ chỉ trong vài phút https://doisongnhandan.com/tham-kich-lu-quet-o-dien-bien-1-3-ban-lang-bi-xoa-so-chi-trong-vai-phut/ Thu, 02 Oct 2025 15:19:21 +0000 https://doisongnhandan.com/tham-kich-lu-quet-o-dien-bien-1-3-ban-lang-bi-xoa-so-chi-trong-vai-phut/

Trong những ngày gần đây, một trận lũ quét nghiêm trọng đã diễn ra tại các huyện miền núi tỉnh Điện Biên, gây ra bởi cơn mưa lớn kéo dài từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8. Sự kiện này đã để lại hậu quả kinh hoàng và cảnh tượng tan hoang tại nhiều bản làng trong khu vực.

Thống kê ban đầu cho thấy, nhiều bản làng đã bị tàn phá nặng nề do lũ quét. Đáng chú ý, một phần ba trong số đó gần như bị ‘xóa sổ’ chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Cuộc sống của người dân địa phương đã bị đảo lộn hoàn toàn, với nhiều ngôi nhà bị phá hủy, đất đai bị xói mòn và cơ sở hạ tầng bị thiệt hại nghiêm trọng.

Cảnh tượng hoang mang và tuyệt vọng của người dân địa phương vẫn còn hiện rõ. Họ đang phải đối mặt với hậu quả của thiên tai và cố gắng tìm cách khắc phục. Sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội đang được triển khai để giúp người dân vượt qua khó khăn.

Nguyên nhân của trận lũ quét này được xác định là do cơn mưa lớn kéo dài từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8. Mưa lớn đã dẫn đến tình trạng nước sông dâng cao, gây ra lũ quét và làm thiệt hại nghiêm trọng cho các bản làng trong khu vực.

Để hạn chế thiệt hại do thiên tai, chính quyền địa phương và người dân cần tăng cường công tác phòng ngừa và chuẩn bị. Việc nâng cao ý thức về nguy cơ thiên tai và thực hiện các biện pháp phòng ngừa sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại và bảo vệ tính mạng của người dân.

]]>
Chuyển đổi sang xe điện – Xu hướng tất yếu cho phát triển bền vững đô thị văn minh https://doisongnhandan.com/chuyen-doi-sang-xe-dien-xu-huong-tat-yeu-cho-phat-trien-ben-vung-do-thi-van-minh/ Wed, 01 Oct 2025 10:33:59 +0000 https://doisongnhandan.com/chuyen-doi-sang-xe-dien-xu-huong-tat-yeu-cho-phat-trien-ben-vung-do-thi-van-minh/

Chuyển đổi sang xe điện – Giải pháp bền vững cho đô thị Hà Nội

Trong bối cảnh ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu đang trở thành vấn đề nghiêm trọng, việc chuyển đổi từ phương tiện chạy xăng sang xe điện đang trở thành xu hướng không thể đảo ngược, đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội. Với mật độ dân cư đông đúc, tình trạng ùn tắc giao thông thường xuyên và mức độ ô nhiễm vượt ngưỡng cho phép, Thủ đô cần một giải pháp bền vững hơn, và xe điện chính là câu trả lời.

Ô nhiễm không khí tại Hà Nội đang diễn biến theo chiều hướng xấu, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ô nhiễm không khí tại Hà Nội chủ yếu là ô nhiễm bụi PM2.5 – một chất gây hại vô hình nhưng có thể gây ra nhiều bệnh về hô hấp, tim mạch, đặc biệt là với đối tượng nhạy cảm như người già, trẻ em.

Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội được xác định là do các nguồn thải từ hoạt động giao thông, xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các hoạt động dân sinh khác. Đặc biệt, với hơn 770 nghìn xe ô tô, gần 6 triệu xe máy sử dụng động cơ đốt trong lưu thông hằng ngày là nguồn phát thải khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường, trực tiếp khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ngày càng tăng.

Xe điện không phát thải khi vận hành, giúp giảm thiểu đáng kể nồng độ khí độc hại, góp phần cải thiện bầu không khí đô thị. Bên cạnh đó, giá xăng dầu biến động liên tục, trong khi điện năng có chi phí ổn định và rẻ hơn nhiều. Theo tính toán, chi phí sạc điện cho xe máy điện chỉ bằng 1/10 so với đổ xăng cho cùng quãng đường di chuyển.

Chính phủ và thành phố Hà Nội đã có nhiều chính sách khuyến khích sử dụng xe điện, như giảm thuế, hỗ trợ lắp đặt trạm sạc, và đề xuất lộ trình cấm xe xăng trong tương lai. Nhiều doanh nghiệp cũng đầu tư vào hạ tầng sạc điện công cộng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn.

Các quốc gia phát triển như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc đã đặt mục tiêu dừng bán xe xăng trong thập kỷ tới. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này, nhất là khi Hà Nội đang hướng tới mục tiêu trở thành thành phố xanh, thông minh. Việc chuyển sang xe điện không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu cấp thiết để phát triển bền vững.

Xe điện không chỉ là phương tiện của tương lai mà đã trở thành hiện tại. Đối với Hà Nội, nơi áp lực về giao thông và ô nhiễm ngày càng gia tăng, việc chuyển đổi sang xe điện là tất yếu để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tiết kiệm chi phí và hướng tới một đô thị văn minh, hiện đại.

]]>
Biến đổi khí hậu ‘đe dọa’ ngành thời trang thế giới và những hệ lụy với Việt Nam https://doisongnhandan.com/bien-doi-khi-hau-de-doa-nganh-thoi-trang-the-gioi-va-nhung-he-luy-voi-viet-nam/ Mon, 01 Sep 2025 05:33:38 +0000 https://doisongnhandan.com/bien-doi-khi-hau-de-doa-nganh-thoi-trang-the-gioi-va-nhung-he-luy-voi-viet-nam/

Biến đổi khí hậu đang có tác động sâu rộng đến ngành thời trang trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Không chỉ là một trong những ngành gây ra lượng phát thải carbon lớn, ngành thời trang còn dễ bị tổn thương trước những biến đổi thời tiết cực đoan. Từ khâu sản xuất, vận hành đến kỳ vọng của thị trường xuất khẩu, ngành thời trang buộc phải thích nghi với những thay đổi để đảm bảo sự tồn tại và phát triển.

Các loại sợi tự nhiên như bông, len, và cashmere phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ ổn định. Khi điều kiện thời tiết trở nên thất thường tại các quốc gia sản xuất sợi chủ lực như Ấn Độ, Trung Quốc, hay Mông Cổ, mùa vụ bị ảnh hưởng, dẫn đến khả năng cung ứng và chi phí đầu vào đều biến động. Ngành dệt may Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu hơn 40 tỷ USD mỗi năm, cũng không ngoại lệ. Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, và biến động về thời tiết tại các quốc gia khác đồng nghĩa với chi phí đầu vào tăng, thời gian giao hàng kéo dài và nguy cơ chậm tiến độ sản xuất cho các đơn hàng xuất khẩu lớn.

Khí hậu nóng lên, thời trang chịu lạnh
Khí hậu nóng lên, thời trang chịu lạnh

Không chỉ chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng, hành vi tiêu dùng cũng bắt đầu thay đổi theo thời tiết. Mùa đông ngắn hơn dẫn đến sức tiêu thụ của các sản phẩm thời trang mùa lạnh giảm xuống, trong khi mùa hè kéo dài làm tăng nhu cầu về quần áo nhẹ, thoáng mát. Nhiều tập đoàn thời trang lớn như Kering, Adidas, hay Hermès đã bắt đầu tích hợp rủi ro khí hậu vào chiến lược vận hành. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may cũng đang từng bước thích ứng, với một số doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sợi tái chế, thân thiện môi trường và sắp xếp lại mô hình sản xuất.

Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng vẫn còn hạn chế và phần lớn doanh nghiệp mới dừng lại ở các giải pháp tình huống. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu như EU đang yêu cầu ngày càng cao về minh bạch chuỗi cung ứng và báo cáo tác động môi trường. Điều này đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong việc đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu và duy trì tính cạnh tranh.

Biến đổi khí hậu đang tạo ra thách thức lớn cho ngành thời trang, nhưng cũng mang lại cơ hội cho các doanh nghiệp có thể thích nghi và thay đổi để đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Các doanh nghiệp cần chủ động hơn trong việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững, tích hợp rủi ro khí hậu vào quy trình vận hành và hướng tới các mục tiêu dài hạn về giảm phát thải và bảo vệ môi trường.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng có tác động mạnh mẽ đến ngành thời trang, việc các doanh nghiệp chủ động thích nghi và thay đổi là hết sức cần thiết. Đây không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để ngành thời trang Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung phát triển bền vững và hướng tới tương lai.

]]>
Đại học Huế tổ chức Hội thảo quốc tế về công nghệ và quản lý xanh https://doisongnhandan.com/dai-hoc-hue-to-chuc-hoi-thao-quoc-te-ve-cong-nghe-va-quan-ly-xanh/ Sun, 31 Aug 2025 13:04:58 +0000 https://doisongnhandan.com/dai-hoc-hue-to-chuc-hoi-thao-quoc-te-ve-cong-nghe-va-quan-ly-xanh/

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15, năm 2025. Sự kiện này đóng vai trò là diễn đàn quan trọng cho các nhà khoa học, hoạch định chính sách và quản lý từ nhiều quốc gia cùng tụ họp, thảo luận và chia sẻ các nghiên cứu mới nhất về bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.

Hội thảo còn có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu trẻ. (Ảnh: Đại Dương)
Hội thảo còn có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu trẻ. (Ảnh: Đại Dương)

Với chủ đề “Các giải pháp quản lý và công nghệ xanh hướng tới phát triển bền vững và phát thải ròng bằng 0”, hội thảo đã trở thành điểm hội tụ của các chuyên gia hàng đầu từ nhiều quốc gia. Hội thảo IFGTM 2025 được tổ chức thành 1 phiên toàn thể và 3 phiên chuyên đề, với hơn 24 báo cáo khoa học được trình bày. Phiên toàn thể có sự tham gia của các diễn giả mời là các giáo sư hàng đầu từ Nhật Bản, Singapore và Việt Nam. Ngoài ra, còn có 27 báo cáo treo (poster), đa số là của các nhà nghiên cứu trẻ và nghiên cứu sinh.

Nhiều đại biểu quốc tế uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu môi trường tham dự tại hội thảo.
Nhiều đại biểu quốc tế uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu môi trường tham dự tại hội thảo.

Theo PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, chủ đề của IFGTM 2025 phản ánh xu hướng toàn cầu về chuyển đổi xanh và nỗ lực đạt đến phát thải ròng khí nhà kính bằng không (Net-Zero). Các báo cáo trình bày tại hội thảo tập trung vào các nhóm nội dung: Các giải pháp công nghệ xanh trong kiểm soát ô nhiễm; Các công cụ và giải pháp tiên tiến cho quản lý tài nguyên và môi trường; Năng lượng và biến đổi khí hậu; Kết nối học thuật – doanh nghiệp – cộng đồng trong tiến trình đạt mục tiêu Net-Zero.

PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế chào mừng khai mạc Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15.
PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế chào mừng khai mạc Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15.

Các báo cáo có chất lượng sẽ trải qua quá trình bình duyệt để công bố trên Kỷ yếu thuộc hệ thống của Nhà xuất bản Trans Tech Publications và trên các tạp chí: Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên, Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa học. Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế (trực tiếp là Khoa Môi trường) là thành viên tích cực của mạng lưới CGTMR từ những ngày đầu thành lập, đã từng đăng cai tổ chức thành công IFGTM 2015. Đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế về môi trường là một trong các thế mạnh của Trường nhiều năm qua.

GS.TS Huỳnh Trung Hải, Chủ tịch Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) phát biểu.
GS.TS Huỳnh Trung Hải, Chủ tịch Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) phát biểu.

IFGTM là diễn đàn khoa học thường niên của Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) – mạng lưới bao gồm các đơn vị (Trường, Viện) có đào tạo và nghiên cứu về môi trường trong nước và các đối tác quốc tế. Hiện CGTMR có 17 đơn vị thành viên trong nước và 4 đối tác quốc tế. Kể từ khi hình thành đến nay, đã có 14 hội thảo IFGTM được các đơn vị khắp các miền đất nước đăng cai tổ chức.

Thông qua sự kiện này, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo về môi trường, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế và thúc đẩy phát triển bền vững.

]]>
Thế giới đối mặt khủng hoảng nước ngọt chưa từng có https://doisongnhandan.com/the-gioi-doi-mat-khung-hoang-nuoc-ngot-chua-tung-co/ Wed, 20 Aug 2025 16:35:45 +0000 https://doisongnhandan.com/the-gioi-doi-mat-khung-hoang-nuoc-ngot-chua-tung-co/

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các lục địa trên Trái Đất đang phải đối mặt với tình trạng khô hạn nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do việc khai thác nước ngầm quá mức và tác động của biến đổi khí hậu. Điều này không chỉ đe dọa đến an ninh nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực trên toàn cầu.

Theo nghiên cứu được công bố bởi Đại học bang Arizona (Mỹ), tình trạng khô hạn nghiêm trọng này đã kéo dài trong hơn 22 năm qua. Trong thời gian này, bốn vùng ‘siêu khô hạn’ với quy mô lục địa đã hình thành tại Bắc bán cầu. Các vùng siêu khô hạn này bao gồm Tây Nam Bắc Mỹ và Trung Mỹ, Alaska và Bắc Canada, Bắc Nga, và khu vực Bắc Phi-Trung Đông-Âu-Á. Sự hình thành của các vùng siêu khô hạn này là một tín hiệu cảnh báo về những thách thức nghiêm trọng mà chúng ta đang phải đối mặt trong việc quản lý và bảo vệ nguồn nước ngọt.

Tình trạng khô hạn không chỉ ảnh hưởng đến các khu vực nông nghiệp, đô thị và vùng băng tan, mà còn đe dọa đến nguồn nước ngọt còn lại trên Trái Đất. Việc mất đi nguồn nước ngọt sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, không chỉ về mặt môi trường mà còn về kinh tế và xã hội. Do đó, nhóm tác giả của nghiên cứu này kêu gọi hành động ngay lập tức để giảm thiểu tình trạng cạn kiệt nước ngầm và bảo vệ nguồn nước ngọt.

Nhóm tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện các chính sách toàn cầu về quản lý nước ngầm. Họ cũng kêu gọi sự hợp tác quốc tế để giải quyết cuộc khủng hoảng nước ngọt toàn cầu. Việc hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ giữa các quốc gia sẽ giúp chúng ta tìm ra những giải pháp hiệu quả để bảo vệ nguồn nước ngọt và đảm bảo an ninh nước cho tất cả mọi người.

Cuối cùng, nghiên cứu này là một lời cảnh tỉnh cho toàn cầu về những nguy cơ mà chúng ta đang phải đối mặt. Thông qua việc hiểu rõ hơn về tình trạng khô hạn và nguyên nhân của nó, chúng ta có thể cùng nhau hành động để bảo vệ nguồn nước ngọt và đảm bảo một tương lai bền vững cho tất cả.

]]>
Giảm ô nhiễm không khí có thể làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu https://doisongnhandan.com/giam-o-nhiem-khong-khi-co-the-lam-tang-toc-do-nong-len-toan-cau/ Sun, 17 Aug 2025 04:18:42 +0000 https://doisongnhandan.com/giam-o-nhiem-khong-khi-co-the-lam-tang-toc-do-nong-len-toan-cau/

Các nhà khoa học toàn cầu đang phải đối mặt với một thách thức mới khi việc cắt giảm ô nhiễm không khí trên phạm vi toàn thế giới vô tình đẩy nhanh quá trình nóng lên toàn cầu. Mặc dù mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe cộng đồng, nhưng việc giảm thiểu ô nhiễm không khí đang làm mất đi một phần quan trọng trong việc làm chậm lại sự nóng lên của Trái Đất.

Trước khi Trung Quốc ban hành chính sách về chất lượng không khí năm 2010, ô nhiễm là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sớm ở nước này. (Nguồn: Getty)
Trước khi Trung Quốc ban hành chính sách về chất lượng không khí năm 2010, ô nhiễm là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong sớm ở nước này. (Nguồn: Getty)

Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Communications Earth & Environment chỉ ra rằng việc giảm ô nhiễm không khí tại Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, đã làm mất đi ‘hiệu ứng làm mát’ do bụi bẩn trong không khí gây ra. Những hạt bụi này trước đây có tác dụng như một tấm chắn, phản xạ một phần ánh sáng mặt trời và hạn chế sự hấp thụ nhiệt tại bề mặt Trái Đất. Khi các quốc gia thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để giảm khí thải như SO₂, ‘tấm chắn’ này đã biến mất.

Giáo sư Robert Allen, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, cho biết: ‘Chúng ta đã tháo tấm rèm che nắng, giờ phải chống lại ánh nắng đó bằng cách giảm các nguồn nhiệt – tức là khí nhà kính.’ Việc cải thiện chất lượng không khí là điều không thể tranh cãi vì lợi ích sức khỏe. Tuy nhiên, nếu không có hành động quyết liệt để giảm khí nhà kính như CO₂ và methane, nhân loại sẽ phải đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng hơn.

Một số giải pháp được đề xuất bao gồm trồng cây, thu giữ carbon, và chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang nguồn tái tạo. Các giải pháp này được đánh giá là con đường đúng đắn, dù có thể chậm hơn nhưng chắc chắn hơn. Bài học từ Đông Á cho thấy chính sách môi trường cần đi đôi với hành động chống biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận đa hướng, từ cải thiện chất lượng không khí đến giảm khí thải và nâng cao nhận thức cộng đồng.

Các chuyên gia đang kêu gọi các quốc gia thực hiện các biện pháp đồng bộ để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Việc đầu tư vào các công nghệ sạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và áp dụng các chính sách nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường là những bước đi cần thiết để giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

Tóm lại, mặc dù việc giảm ô nhiễm không khí mang lại nhiều lợi ích, nhưng cần đi kèm với các biện pháp giảm khí nhà kính để tránh đẩy nhanh tốc độ nóng lên toàn cầu. Một chiến lược cân bằng và đa hướng sẽ giúp nhân loại tiến tới một tương lai bền vững hơn.

]]>
Việt Nam – châu Phi tìm cơ hội hợp tác nông nghiệp https://doisongnhandan.com/viet-nam-chau-phi-tim-co-hoi-hop-tac-nong-nghiep/ Sun, 27 Jul 2025 01:21:31 +0000 https://doisongnhandan.com/viet-nam-chau-phi-tim-co-hoi-hop-tac-nong-nghiep/

Nhật báo Cresus Algeria gần đây đã đăng tải một bài viết đánh giá cao những thành tựu phát triển ấn tượng của Việt Nam, đồng thời bày tỏ kỳ vọng rằng chuyến thăm sắp tới của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tới các nước châu Phi sẽ mở ra những cơ hội mới để nâng tầm hợp tác giữa Việt Nam và châu Phi.

Theo bài viết, Việt Nam đang nổi lên như một “điểm đến tri thức” trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn, dựa trên giá trị bản địa, chuỗi giá trị cộng đồng và hội nhập thương mại quốc tế. Với hơn 60% dân số sống ở khu vực nông thôn, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong gần 40 năm đổi mới. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã đạt 62,5 tỷ USD, trong khi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 33,84 tỷ USD, tăng gần 15% so với cùng kỳ.

Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp nhằm gia tăng giá trị gia tăng, nhấn mạnh vào tính bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp thông minh. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ở Việt Nam không chỉ là một thương hiệu, mà còn là mô hình tích hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và cộng đồng trong một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Tác giả đánh giá cao những đề xuất của Việt Nam với hợp tác Nam-Nam dựa trên 4 trụ cột do FAO đề ra: “cải thiện sản xuất, dinh dưỡng, môi trường và đời sống, không để ai bị bỏ lại phía sau”. Bài viết cũng nhắc lại lời kêu gọi của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế, thể chế tài chính, các đối tác song phương và đa phương tăng cường hỗ trợ hợp tác Nam-Nam nhằm triển khai hiệu quả chương trình OCOP.

Tác giả bày tỏ hy vọng Việt Nam, với tư cách là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, có nhiều kinh nghiệm quý báu trong giảm phát thải nông nghiệp, có thể hợp tác cùng thắng với các nước anh em châu Phi. Đặc biệt, bài viết giành sự quan tâm tới các sản phẩm Halal của Việt Nam, nhất là những thương hiệu đã chứng minh được chất lượng tại các thị trường tiêu chuẩn thực phẩm Halal cao như Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất, Malaysia và Indonesia.

Tác giả hy vọng các sản phẩm Halal với hương vị đặc biệt của miền nhiệt đới sẽ sớm vượt qua các thách thức hiện hữu để xuất hiện rộng rãi hơn tại thị trường châu Phi. Việc mở đường bay thẳng đầu tiên giữa Việt Nam và châu Phi được xem là khởi đầu mới để các bên tiến đến hợp tác cùng thắng.

Chuyến bay ET0678 của Ethiopian Airlines đã khai trương chính thức đường bay kết nối hai thủ đô, tạo điều kiện cho hoạt động du lịch, thương mại và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và châu Phi. Tờ nhật báo bày tỏ sự tin tưởng quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước bạn bè châu Phi sẽ là điểm tựa để nâng tầm hợp tác Việt Nam – châu Phi thời gian tới.

Chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Trần Thanh Mẫn tới các nước châu Phi vào cuối tháng 7/2025 được kỳ vọng sẽ khởi động lại những kết nối lịch sử và cùng nhau mở ra triển vọng hợp tác sâu rộng thời gian tới. Tác giả tin tưởng người Việt Nam với tấm lòng rộng mở, coi trọng đoàn kết quốc tế, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm quý báu, đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo, thu hút đầu tư và phát triển đất nước.

Bài viết nhấn mạnh trong bối cảnh đó, Việt Nam và châu Phi cần tiếp tục củng cố lòng tin chính trị, tăng cường trao đổi đoàn cấp cao thường xuyên, thúc đẩy đàm phán các hiệp định cơ bản. Cuối bài viết, tác giả liên tưởng không có lý do gì mà những dân tộc đã cùng nhau đánh đổ bè lũ thực dân, đế quốc lại không thể sát cánh bên nhau trong phát triển kinh tế, hướng tới thịnh vượng và phát triển.

]]>